Trong bối cảnh nhiều công nghệ lõi đang bị siết chặt chuyển giao trên toàn cầu, việc làm chủ công nghệ lõi không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là bước chuyển chiến lược để Việt Nam vươn lên tự chủ công nghệ và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Và một trong những lực lượng nòng cốt để hiện thực hóa được mục tiêu này chính là các trường đại học.

Đầu tháng sáu chính phủ đã ban hành danh mục 11 công nghệ chiến lược để phát triển từ nay đến năm 2030, tập trung vào các lĩnh vực then chốt, có ảnh hưởng sâu rộng đến năng lực cạnh tranh và tự chủ công nghệ của quốc gia như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, chip bán dẫn, công nghệ y - sinh học tiên tiến,...
“Câu chuyện ở đây là: người Việt Nam mình hiện nay vẫn đang sử dụng công nghệ từ nước ngoài rất nhiều. Chúng ta đang ở giai đoạn ‘đứng khom khom’, và giờ là lúc phải ‘đứng thẳng dậy’”, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng cho biết tại buổi làm việc giữa Bộ KH&CN và Bộ GĐ&ĐT với Đại học Bách khoa Hà Nội vào đầu tháng bảy. “Muốn đứng dậy được thì phải dựa vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đặc biệt là làm chủ công nghệ, trong đó phải dựa vào các trường đại học, các nhà khoa học và những người đang nghiên cứu”.
Chưa phát huy hết tiềm năng
Song, việc phát triển công nghệ lõi và đặc biệt là đưa được các nghiên cứu như vậy ra thị trường chưa bao giờ là bài toán dễ dàng ở Việt Nam. Có thể nhìn thấy rõ thực tế này khi phân tích trường hợp của Đại học Bách khoa Hà Nội (ĐHBK) - một trung tâm đào tạo kỹ thuật hàng đầu cả nước. Trường đại học này hiện sở hữu nhiều trung tâm nghiên cứu xuất sắc, tiêu biểu như Trung tâm Nghiên cứu liên ngành về Công nghệ cao (INCHEM), nơi phát triển các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực vật liệu, sinh học, robot... và Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế về Trí tuệ nhân tạo (BKAI) - trung tâm công lập đầu tiên tại Việt Nam có năng lực toàn diện về nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo AI, được các tập đoàn công nghệ lớn tài trợ. Hoạt động nghiên cứu khoa học tại ĐHBK cũng phát triển mạnh mẽ với việc công bố hơn 2.000 bài báo quốc tế mỗi năm – cao nhất trong khối đại học công lập – và đã chuyển giao hơn 200 sản phẩm, quy trình công nghệ cho doanh nghiệp. ĐHBK cũng là một trong những trường đại học đầu tiên xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp trong lòng nhà trường. Thông qua mô hình Bách khoa Innovation Hub, nhà trường hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp và thúc đẩy các doanh nghiệp spin-off từ giảng viên. Hàng chục doanh nghiệp ra đời từ các công trình nghiên cứu tại trường, có thể kể đến như BK Holdings, BKAV, VietSearch, VnTrack... Trong số đó, không ít doanh nghiệp đã tạo nguồn thu và quay lại đầu tư ngược vào trường. Bên cạnh thế mạnh về nghiên cứu, trường cũng có quan hệ hợp tác sâu rộng với các tập đoàn trong nước và quốc tế như VinGroup, Viettel, Samsung, Honda, Toshiba… và là đại học đầu tiên tại Việt Nam triển khai mô hình hợp tác trường – doanh nghiệp trong phát triển công nghệ, điển hình là BK Holdings bắt tay với doanh nghiệp đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức.
Nhiều nhóm nghiên cứu hiện đang hoạt động rời rạc, như những ‘tiểu vương quốc riêng’, chưa có sự phối hợp liên ngành cần thiết. Bên cạnh đó, cơ chế tài chính còn nặng tính hành chính, thủ tục, thiếu linh hoạt và chưa gắn chặt với kết quả đầu ra thực tế. Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng |
Song, dù số lượng đề tài và bài báo quốc tế hằng năm ở mức cao, tỷ lệ thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại trường này vẫn còn thấp. Mỗi năm, doanh thu từ chuyển giao công nghệ chỉ đạt khoảng 20 tỷ đồng, chiếm 1% tổng doanh thu của trường - thấp hơn nhiều so với mức trung bình tại các đại học nghiên cứu trên thế giới (thường gấp 5-10 lần). Theo phân tích của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, một trong những nguyên nhân chính là cơ chế sở hữu trí tuệ còn bất cập, thiếu đội ngũ trung gian chuyên nghiệp để hỗ trợ thương mại hóa công nghệ. Trong khi đó, văn hóa nghiên cứu - công bố được hình thành khá mạnh, nhưng văn hóa nghiên cứu - ứng dụng vẫn chưa rõ nét, chưa thành thói quen. Không ít kết quả nghiên cứu do trường hoặc nhóm nghiên cứu tạo ra bị chuyển giao theo hướng cá nhân, không thông qua nhà trường, làm giảm nguồn thu hợp pháp từ hoạt động này. Vấn đề sâu xa hơn là sự thiếu hụt về cơ chế tài chính linh hoạt và các quy định nội bộ rõ ràng liên quan đến sở hữu trí tuệ, góp vốn bằng tài sản trí tuệ (IP), phân chia lợi nhuận khi thương mại hóa… Cơ chế khuyến khích chưa đủ mạnh khiến nhiều người lựa chọn con đường cá nhân hóa, vì “làm riêng thì nhanh hơn, lợi hơn”. Ngoài ra, việc thiếu đơn vị chuyên trách trong trường - các văn phòng chuyển giao công nghệ (Technology Transfer Office - TTO) - để xử lý thương mại hóa - một công việc phức tạp, đòi hỏi kỹ năng và kiến thức đặc thù - cũng là điểm nghẽn lớn. Và đây không chỉ là thực trạng riêng của Đại học Bách khoa Hà Nội. Theo ghi nhận sơ bộ của nhóm phóng viên Khoa học & Phát triển từ năm 2021 đến giờ, chưa có trường đại học nào ở Việt Nam có bộ phận TTO “đúng nghĩa” và vận hành thực sự hiệu quả. Mặc dù các trường đại học miền Nam có xu hướng làm việc tích cực với doanh nghiệp hơn so với các trường miền Bắc, nhưng điều đó vẫn chưa đủ để hình thành một hệ sinh thái chuyển giao công nghệ hiệu quả và bền vững.
Nhưng vấn đề quan trọng hơn là trường đại học này vẫn thiếu một chiến lược ưu tiên rõ ràng cho các công nghệ và lĩnh vực mũi nhọn. “Nhiều nhóm nghiên cứu hiện đang hoạt động rời rạc, như những ‘tiểu vương quốc riêng’, chưa có sự phối hợp liên ngành cần thiết. Bên cạnh đó, cơ chế tài chính còn nặng tính hành chính, thủ tục, thiếu linh hoạt và chưa gắn chặt với kết quả đầu ra thực tế”, theo nhận định của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng. Song song với đó, quá trình đổi mới trong các ngành kỹ thuật truyền thống còn diễn ra chậm. Những lĩnh vực nền tảng như cơ khí, điện tử đang dần tụt lại phía sau so với các ngành mới nổi như công nghệ thông tin, công nghệ số và dữ liệu lớn. Việc tích hợp liên ngành cũng còn hạn chế rõ rệt, đặc biệt là thiếu vắng các mô hình kết hợp giữa kỹ sư cơ khí, dữ liệu và tự động hóa - những yếu tố then chốt trong phát triển công nghệ 4.0.
Theo lý thuyết chung đã được thừa nhận rộng rãi, các đại học và viện nghiên cứu là trung tâm cung cấp tri thức và ý tưởng mới và đây sẽ là nguồn “đầu vào” cho các ý tưởng, doanh nghiệp khởi nghiệp. “Tuy nhiên, Việt Nam chưa hình thành các trường đại học nghiên cứu (research intensive-based university) thực thụ. Nhân sự trong phần lớn các đại học hiện nay đều tập trung thời gian cho sứ mệnh căn bản nhất là hoạt động giảng dạy. Điều này có nghĩa là nguồn lực tài chính và chuyên môn dành cho nghiên cứu và phát triển rất hạn chế, dẫn tới việc không có đủ thành quả nghiên cứu làm đầu vào cho các hoạt động đổi mới sáng tạo và tạo ra các doanh nghiệp khởi nghiệp dựa trên công nghệ mới. Khi các trường đại học không có năng lực đổi mới sáng tạo thì KH&CN không trở thành lực lượng sản xuất và động lực của sự phát triển. Sự thiếu vắng các công ty khởi nghiệp với hàm lượng tri thức kỹ thuật cao (deep tech) như quang điện tử, robot và thiết bị bay không người lái, công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo và vật liệu tiên tiến là hệ quả của việc không có một hệ thống nghiên cứu mạnh mẽ trong các trường đại học và viện nghiên cứu”, TS. Phạm Duy Hiệu, Giảng viên - Viện Kỹ thuật và Khoa học Máy tính, Giám đốc Khoa học Trung tâm Khởi nghiệp, trường Đại học VinUni – từng chia sẻ trong một bài viết trên Tia Sáng.
Cần những cách làm mới
Để mục tiêu làm chủ các công nghệ lõi trở thành hiện thực, một hướng đi thực tế được nhiều chuyên gia nhấn mạnh là: không nhất thiết phải làm chủ ngay toàn bộ công nghệ, mà nên chia nhỏ các cụm công nghệ lõi, làm chủ từng phần, từng chặng. “Sản phẩm có thể tích hợp công nghệ mua từ nước ngoài, nhưng thiết kế, tích hợp, làm chủ hệ thống phải do Việt Nam làm”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng dẫn ví dụ. Từ sản phẩm thương mại đầu tiên, dần dần nội địa hóa từng linh kiện, từng module, đến khi làm chủ hoàn toàn. Chẳng hạn, Viettel phải mất nhiều năm tập trung nội địa hóa từng phần, đến nay tập đoàn mới làm chủ 100% công nghệ chiến lược.
Từ góc nhìn của trường đại học, để vượt qua những rào cản kể trên, Đại học Bách khoa Hà Nội đã đề xuất xây dựng Trung tâm Công nghệ nền (Deep-tech Core Lab) với mục tiêu là trở thành đầu não quốc gia về công nghệ lõi: MEMS, AI công nghiệp, vật liệu mới, cảm biến, pin hydrogen, tự động hóa, ... Đây sẽ là nơi ươm tạo công nghệ, mở cửa cho doanh nghiệp, startup và tỉnh/thành cùng sử dụng. Bên cạnh đó, trường cũng có thể chuyển dịch từ giảng dạy, nghiên cứu sang sáng tạo công nghệ lõi, thu hút các dự án cấp quốc gia và quốc gia đặc biệt, viện trợ quốc tế, doanh nghiệp lớn, cũng như thu hút các nhà khoa học toàn cầu về giải các bài toán lớn, có tính đột phá chiến lược của Việt Nam. Giải pháp thứ hai là thí điểm mô hình giảng viên - doanh nhân công nghệ, theo đó cho phép giảng viên vừa nghiên cứu - giảng dạy vừa vận hành công ty spin-off, gắn kết đánh giá học thuật với giá trị đổi mới sáng tạo nhằm tạo ra đội ngũ nhà khoa học doanh nhân, là trụ cột cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nội sinh. Bên cạnh đó, trường cũng có thể thiết lập quỹ đầu tư công nghệ nội bộ (Innovation Fund) với mục tiêu là góp vốn vào startup bằng IP của trường, huy động thêm vốn của tư nhân và của nhà nước vào đầu tư mạo hiểm cho các công nghệ gốc của trường nhằm tạo dòng vốn quay vòng từ nghiên cứu - startup - lợi nhuận và đầu tư lại, tạo nên tính tự chủ, không lệ thuộc ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, nhà nước không nên chỉ là nhà đầu tư, mà còn nên là người mua đầu tiên của các sản phẩm chiến lược. Chẳng hạn, tại Mỹ có mô hình là các công ty công nghệ lớn đều là nhà thầu của chính phủ. Chính điều này đã giúp bảo đảm thị trường và giảm rủi ro cho doanh nghiệp công nghệ.
Song, việc nghiên cứu và phát triển công nghệ cũng không thể vội vàng và thiếu chiến lược. “Chúng ta, ngay từ đầu, đã định hướng bước vào tương lai xa. Việt Nam vẫn còn nghèo nhưng lại muốn nghiên cứu dài hơi như Hàn Quốc ở thời điểm hiện tại”, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy chỉ ra một vấn đề. Trong khi đó, Hàn Quốc vào những năm 1960 đã trải qua 20 năm chỉ tập trung vào chuyển giao công nghệ, hoàn toàn chưa nghiên cứu cơ bản. Thành công của họ đến từ việc tiếp nhận công nghệ của Mỹ, trong khi khoa học cơ bản thì học từ Nga. “Chúng ta cần so sánh Việt Nam hiện tại với Hàn Quốc của những năm 1970–1980, thay vì với Hàn Quốc hay Trung Quốc hiện nay. Nếu chúng ta cứ đặt ra mục tiêu nghiên cứu tàu vũ trụ,... mà không đi từng bước, thì sẽ rơi vào cái bẫy ‘nước nghèo mãi nghèo’. Hàn Quốc sau khi doanh nghiệp trong nước đã hấp thụ đủ công nghệ, trình độ sản xuất tăng, mới bắt đầu chuyển sang đầu tư cho nghiên cứu cơ bản và công nghệ lõi. Khi đó, tỷ trọng đầu tư cũng thay đổi theo, chuyển dần về nghiên cứu cơ bản”, Thứ trưởng cho biết.
Một bài học khác đến từ cách quản lý rủi ro. “Kể cả trong đầu tư startup cũng vậy: lĩnh vực y tế có chu kỳ đầu tư 10 năm, còn công nghệ thông tin thì chỉ cần 1-2 năm là đã có kết quả. Nguyên lý ở đây là phải phân loại rủi ro. Những nghiên cứu càng lâu mới ra sản phẩm thì rủi ro càng cao, và ngược lại. Ví dụ: một doanh nghiệp chỉ cần cải tiến một chút, có trường đại học hỗ trợ, là đã có thể tung sản phẩm ra thị trường. Những trường hợp như vậy có rủi ro thấp, thì nên ưu tiên đầu tư lớn hơn”, thứ trưởng đề xuất.
Từ thực tiễn và các bài học quốc tế, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: đầu tư vào công nghệ lõi phải là chiến lược dài hạn. Nghiên cứu phải gắn với sản phẩm, gắn với doanh nghiệp, và cuối cùng là góp phần vào tăng trưởng kinh tế. “Nhà nước chi một đồng cho viện nghiên cứu thì viện nghiên cứu ấy phải tạo ra 0,1 đến 0,2 đồng từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu này đến doanh nghiệp thì phải tạo ra từ 5 đến 10 đồng doanh thu, tương đương với 2 đến 4 đồng GDP”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh. “Hiện nay chúng ta chưa nhìn vào kết quả cuối cùng như vậy”.
Bài đăng KH&PT số 1353 (số 29/2025)