Sau một thời gian dài chưa được đánh giá đúng mức, một viễn cảnh phát triển mới đã mở ra cho ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam.

Cuộc gặp gỡ những người đứng đầu Đảng và Chính phủ với các chuyên gia của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, diễn ra vào ngày 4/9/2025 vừa qua, như một điểm mốc quan trọng mới trong lịch sử phát triển của lĩnh vực KH&CN đặc biệt này. Trong quá khứ hơn bốn thập niên phát triển của năng lượng nguyên tử tại Việt Nam, Viện Năng lượng nguyên tử đã nhận được sự quan tâm của những người lãnh đạo đất nước từng thời kỳ với những chuyến thị sát và làm việc tại lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, một chứng nhân cho nỗ lực hợp tác quốc tế, khai thác dòng neutron quý báu từ lõi lò phản ứng để triển khai nghiên cứu - ứng dụng kỹ thuật hạt nhân vào đời sống kinh tế xã hội.
Nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam đã trưởng thành từ đây và nhiều tri thức khoa học đã được tích lũy từ những hoạt động nghiên cứu âm thầm tại đây, giờ đã trở thành thứ vốn liếng quý báu cho những kế hoạch mới của đất nước, chương trình phát triển điện hạt nhân với Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, 2 và chương trình ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong nhiều lĩnh vực của đất nước.
Phải chăng đó là một bước đà quan trọng?
Những cam kết dài hạn
“Nguyên tử không phải là một người lính mà là một người thợ”, câu nói của Igor Kurchatov, vị tổng công trình sư chương trình hạt nhân Soviet được khắc trên một bức tường của Dubna, thành phố khoa học Nga ngày nay, như một lời khẳng định về vai trò to lớn của công nghệ hạt nhân.
Phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử phải là chiến lược lâu dài, đòi hỏi tầm nhìn xa, sự kiên định và cách tiếp cận toàn diện từ thể chế, hạ tầng, công nghệ cho đến con người. Phát triển năng lượng nguyên tử cũng góp phần nâng cao vị thế, nâng tầm quốc gia. Tổng Bí thư Tô Lâm |
Thế nhưng, bất chấp những gì mà năng lượng nguyên tử đem lại cho cuộc sống, cả ở Việt Nam và thế giới, vẫn tồn tại nhiều e ngại về lĩnh vực KH&CN này. Chính sự e ngại do chưa hiểu rõ bản chất khoa học của năng lượng nguyên tử đã khiến con đường ứng dụng kỹ thuật hạt nhân vào đời sống xã hội tại Việt Nam thêm gập ghềnh. Có thể thấy điều đó ngay trong lộ trình phát triển điện hạt nhân, một thành tựu đã được chứng thực từ hơn 70 năm trước ở Obninsk, nhưng gặp phải nhiều trắc trở ở Việt Nam. Chương trình phát triển điện hạt nhân đã buộc phải tạm dừng 8 năm, sau rất nhiều nỗ lực chuẩn bị. Chỉ đến tháng 11/2024, khi ý chí chính trị rất mạnh từ những người đứng đầu Đảng và Chính phủ được đặt vào lộ trình này, mạch phát triển mới thông suốt trở lại.
Sau đó, một loạt các chính sách mới với KH&CN cũng như năng lượng nguyên tử được gấp rút thông qua và công bố rộng rãi, như Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo; Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) - Luật số 94/2025/QH15, Quyết định 245/QĐ-TTg về Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định 1131/QĐ-TTg về danh mục công nghệ chiến lược, trong đó có công nghệ lò phản ứng mô đun nhỏ (SMR)… Những văn bản này đã đặt một nền móng vững chắc cho sự phát triển hứa hẹn của năng lượng nguyên tử, đặc biệt là điện hạt nhân, trong thời kỳ mới.
Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan cùng nhiều lãnh đạo bộ, ngành và những chuyên gia Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, trong khuôn viên của Viện, như một kết nối mang tính biểu tượng, một sự kiện khẳng định quan điểm và tầm nhìn dài hạn của Việt Nam về năng lượng nguyên tử. Từ lâu, thế giới công nghệ hạt nhân vẫn thừa nhận một điều là việc theo đuổi các chương trình hạt nhân của các quốc gia cần “những hợp đồng cam kết cả trăm năm” bởi những gì con người được thụ hưởng từ những chương trình này có thể kéo dài liên thế hệ. Theo thiết kế lò phản ứng năng lượng của công nghệ hạt nhân thế hệ ba cộng, vòng đời của một nhà máy điện hạt nhân trung bình là 60 năm và có thể được gia hạn thêm 20 năm, một sự tồn tại mang tính biểu tượng như câu nói của Kurchatov “hạt nhân là người thợ”.

Trong cuộc gặp gỡ này, một lần nữa, quan điểm của Việt Nam được khẳng định với lời trao đổi của Tổng Bí thư Tô Lâm: Phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử phải là chiến lược lâu dài, đòi hỏi tầm nhìn xa, sự kiên định và cách tiếp cận toàn diện từ thể chế, hạ tầng, công nghệ cho đến con người. Phát triển năng lượng nguyên tử cũng góp phần nâng cao vị thế, nâng tầm quốc gia.
Từ những viên gạch ban đầu về kế hoạch phát triển điện hạt nhân mà Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam từ thời giáo sư Nguyễn Đình Tứ đề xướng đến nay, đã mất tới bốn thập niên để thấy được một quyết tâm và một ý chí chính trị quốc gia.
Với quan điểm đó, năng lượng nguyên tử đã chính thức được đặt vào danh sách mục tiêu chiến lược lâu dài, có tầm quan trọng, cốt yếu trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước. Điều này cũng phù hợp với những gì đã diễn ra trong lịch sử phát triển năng lượng nguyên tử thế giới. Từ những quốc gia tự nghiên cứu, phát triển công nghệ hạt nhân gốc và xuất khẩu công nghệ ra quốc tế như Nga, Mỹ, Anh, Pháp đến những quốc gia học hỏi, tiếp nhận và làm chủ công nghệ như Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… đều có một vị thế nhất định trên bản đồ hạt nhân thế giới và chứng tỏ được sức mạnh ở nhiều lĩnh vực khác. Đó chính là hệ quả mà một quốc gia phát triển điện hạt nhân thu được - “sự lớn mạnh về KH&CN và năng lực công nghiệp”, theo TS. Trần Chí Thành. Từ góc nhìn của một chuyên gia về công nghệ hạt nhân, ông lý giải “Bởi vì việc phát triển điện hạt nhân đòi hỏi năng lực về mặt KH&CN hạt nhân, năng lực công nghiệp để có thể tham gia xây dựng và đưa các lò phản ứng vào vận hành. Để đáp ứng những điều đó, anh buộc phải có những con người giỏi, nguồn nhân lực chất lượng cao về công nghệ hạt nhân và pháp quy hạt nhân. Mọi thứ anh làm đều phải ở tiêu chuẩn cao và khắt khe nhất”. Năng lực ấy không đến một ngày, nó được tích lũy sau cả một quá trình “Có thể ban đầu, một quốc gia mới phát triển điện hạt nhân sẽ rất khó để làm được điều này nhưng khi đã đáp ứng được rồi thì anh sẽ được hưởng lợi từ những việc mình đã làm. Tất nhiên, khi đó năng lực mới ấy sẽ đóng góp rất lớn vào các ngành khác và trở thành tiềm lực của đất nước”.
| Xây dựng và phát triển điện hạt nhân phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho con người, môi trường và xã hội, tuân thủ hướng dẫn của các cơ quan quốc tế. Phát triển năng lực nội sinh để làm chủ từng cấu phần then chốt và hợp tác quốc tế theo nguyên tắc đồng thiết kế, đồng chế tạo, đồng vận hành, đồng quản lý. |
Khi nhìn vào vai trò và năng lực của ngành năng lượng nguyên tử, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan nhận thấy giá trị mà các kỹ thuật hạt nhân có thể đóng góp cho xã hội không chỉ là tăng trưởng quốc gia, thúc đẩy nhiều lĩnh vực mà còn là điều sâu sắc hơn thế: “Những gì có thể cứu cả một vùng đất lại bắt đầu từ điều bình dị: một mẫu nước được phân tích, một hạt giống được chiếu xạ. Những điều tưởng như nhỏ bé, nhưng có thể thay đổi diện mạo cả đồng bằng”.
Nguyên tử không phải là một người lính mà là người thợ. Từ góc nhìn này, ông cho rằng “Ở đây, đã nhìn thấy cách mà khoa học đang gieo những hạt giống của tương lai – không chỉ là hạt lúa, mà là hạt mầm tri thức”.
Những nhiệm vụ mang tầm chiến lược
Vậy làm gì để có thể hiện thực hóa tầm nhìn và vai trò chiến lược của năng lượng nguyên tử nói chung và điện hạt nhân nói riêng trong sự phát triển của đất nước? Đó là câu hỏi lớn mà ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam đang phải đối diện. Thời cơ cho một giai đoạn phát triển mới đã tới nhưng để thực hiện được những yêu cầu chiến lược, cần rất nhiều nỗ lực và chính sách để họ phát huy sức mạnh của mình.
Những “đơn đặt hàng’ chính sách giờ đã được đưa ra trong buổi làm việc giữa lãnh đạo Đảng, Chính phủ với Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam và sau đó có trong thông báo kết luận của Văn phòng Trung ương Đảng ngày 13/9/2025. Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề ra yêu cầu và các định hướng quan trọng, những gợi mở về các đề bài lớn mà ngành năng lượng nguyên tử cần thực hiện để có thể đạt được các mục tiêu chiến lược về an ninh năng lượng, phát triển kinh tế - xã hội và tiềm lực quốc gia: Xây dựng và phát triển điện hạt nhân phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho con người, môi trường và xã hội, tuân thủ hướng dẫn của các cơ quan quốc tế. Phát triển năng lực nội sinh để làm chủ từng cấu phần then chốt và hợp tác quốc tế theo nguyên tắc đồng thiết kế, đồng chế tạo, đồng vận hành, đồng quản lý. Xây dựng chương trình quốc gia về công nghệ và an toàn hạt nhân nhằm bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân ở cấp chuẩn mực quốc tế. Xây dựng năng lực KH&CN cốt lõi để triển khai điện hạt nhân và các ứng dụng điện hạt nhân chủ động, bền vững, nâng cao năng lực và khả năng điều phối về pháp quy hạt nhân của Cục An toàn bức xạ…
Vì vậy, giải pháp cấp bách cho Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, và nói rộng ra là cho ngành hạt nhân chính là tăng cường đầu tư hạ tầng nghiên cứu KH&CN lĩnh vực năng lượng nguyên tử, giải pháp đột phá phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển, hợp tác hiệu quả và có chọn lọc hơn nữa với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, các tổ chức, các viện nghiên cứu uy tín trên thế giới… |
Các định hướng mà Tổng Bí thư Tô Lâm đặt ra cho Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, thoạt nhìn có vẻ như những hướng đi độc lập nhưng nhìn tổng thể, đó là những trụ cột năng lực có tác động qua lại lẫn nhau, có thể bổ sung và củng cố cho nhau. Năng lực của một đội ngũ chuyên gia có được khi thực hiện nhiệm vụ quốc gia nhưng tiêu chuẩn đạt tầm quốc tế, những tiêu chuẩn mà vốn dĩ đã phải cao hơn so với tiêu chuẩn thuộc nhiều công nghệ khác, sẽ là vốn quý của quốc gia. Năng lực xây dựng và vận hành an toàn các lò phản ứng năng lượng, cả về mặt làm chủ công nghệ hạt nhân và khâu kiểm tra, giám sát an toàn, là một năng lực đồng bộ, xuyên suốt, không thể tách rời.
Hiện tại, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đang có những chuyên gia như vậy. Trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam vào năm 2023, Phó Thủ tướng Nga Dmitry Chernyshenko từng chia sẻ “Tôi được biết, các nhà khoa học của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã tham gia vào công việc của Hội đồng Tư vấn [khoa học của lò phản ứng MBIR]” - lò phản ứng neutron nhanh làm lạnh bằng muối đa mục tiêu 150 MW. Không chỉ ở mức nghiên cứu chuyên sâu về công nghệ lò phản ứng nghiên cứu mà ở lĩnh vực công nghệ lò phản ứng năng lượng thế hệ ba cộng, một số nhà chuyên gia Việt Nam được đào tạo ở Nga đang bắt đầu làm việc tại các nhà máy điện hạt nhân của quốc gia nhập khẩu công nghệ hạt nhân từ Rosatom, hãng thông tấn TASS dẫn lời Tổng Giám đốc Rosatom Alexay Likhachev.
Những năng lực ở tầm quốc tế không phải dĩ nhiên mà có, nó đòi hỏi sự tích lũy và xây dựng bền bỉ theo năm tháng. Nếu nhìn lại sự tích lũy năng lực ấy trong lịch sử phát triển của ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam, có thể thấy rõ nét điều đó: khi tiến hành Dự án Khôi phục và Mở rộng lò phản ứng Đà Lạt ở buổi đầu của ngành năng lượng nguyên tử, Việt Nam chưa có chuyên gia đủ tầm để tham gia vào phương án thiết kế cùng chuyên gia Nga nhưng ở những mốc phát triển sau đó, Việt Nam đã tự tin đủ năng lực tham gia tính toán chuyển đổi nhiên liệu từ độ giàu cao sang độ giàu thấp trên lò phản ứng Đà Lạt và giờ đây là tham gia tính toán thiết kế lò phản ứng mới đa mục tiêu của Dự án Trung tâm KH&CN hạt nhân quốc gia.
Tuy nhiên, không dưới 10 năm, thậm chí hơn thế, để có được một chuyên gia tầm cỡ quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân. Dẫu không phải “ăn cơm mới, nói chuyện cũ” nhưng có một sự thật là di chứng của tám năm tạm dừng chương trình điện hạt nhân vẫn tồn tại đây đó, nhiều vị trí đã khuyết thiếu mà chưa thể ngay một lúc lấp đầy hoặc năng lực đội ngũ nghiên cứu cũng bị mất mát, hao hụt phần nào do trong quãng thời gian đó, không có đủ những bài toán công nghệ để họ tập trung năng lực giải quyết... Trong thông báo kết luận của Văn phòng Trung ương Đảng cũng nêu rõ những điểm yếu chí mạng: chưa có cơ chế, chính sách đặc thù tạo điều kiện phát triển lĩnh vực năng lượng nguyên tử; ngân sách đầu tư cho lĩnh vực năng lượng nguyên tử chưa đáp ứng yêu cầu, phân tán, kém hiệu quả; hạ tầng an toàn, an ninh hạt nhân chưa đáp ứng yêu cầu theo tiêu chuẩn quốc tế; phòng thí nghiệm lạc hậu, xuống cấp nghiêm trọng; chậm triển khai một số dự án quan trọng của ngành…
Vì vậy, giải pháp cấp bách cho Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, và nói rộng ra là cho ngành hạt nhân, chính là các cơ chế, chính sách nâng cao năng lực. Trong buổi làm việc của Tổng Bí thư với Viện và trong thông báo kết luận của Văn phòng Trung ương Đảng đều nhấn mạnh đến việc tăng cường đầu tư hạ tầng nghiên cứu KH&CN lĩnh vực năng lượng nguyên tử, giải pháp đột phá phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển, hợp tác hiệu quả và có chọn lọc hơn nữa với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, các tổ chức, các viện nghiên cứu uy tín trên thế giới… Đi kèm với đó là xây dựng chương trình quốc gia về công nghệ và an toàn hạt nhân nhằm bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân ở cấp chuẩn mực quốc tế, đẩy nhanh tiến độ xây dựng Trung tâm KH&CN hạt nhân quốc gia, nâng cấp lò phản ứng nghiên cứu Đà Lạt, xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia phục vụ nghiên cứu, thử nghiệm... Đây chính là con đường bài bản và vững chắc nhất để từng bước học hỏi, làm chủ công nghệ hạt nhân, không chỉ lò phản ứng năng lượng thế hệ III+ mà còn có thể là lò phản ứng công suất nhỏ (SMR), đạt các tiêu chuẩn quốc tế ngay tại Việt Nam.
Với một quốc gia lần đầu có điện hạt nhân, Việt Nam cần nhiều năng lực. Có vô số bài học kinh nghiệm từ quốc tế dành cho các quốc gia đi sau, khi đón nhận công nghệ từ các quốc gia tiên tiến. “Tri thức tích lũy được qua những nấc thang công nghệ, nhiều khi chỉ tồn tại dưới dạng tiềm ẩn (tacit), là vô giá. Không nhận ra điều này, các nước đi sau có thể dễ bị khẩu hiệu ‘đi tắt đón đầu’ ru ngủ. Chỉ có tổ chức nghiên cứu khoa học (R&D) nghiêm túc, quá trình bắt chước có sáng tạo mới thành công”, giáo sư Phạm Duy Hiển, người là tổng công trình sư Dự án Khôi phục và Mở rộng lò phản ứng Đà Lạt và sau đó tổ chức khai thác nghiên cứu thành công trên hệ thiết bị nghiên cứu quan trọng này, đã nhận xét như thế về việc học hỏi sao chép công nghệ và sáng tạo công nghệ ở các quốc gia đi sau. Với chương trình R&D đồng bộ với kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng chuyên môn đối với đội ngũ khoa học, cán bộ cùng các cơ chế chính sách đặc thù về lương, phụ cấp, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam và nói rộng ra là ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam, có thể tránh được nguy cơ này.
Sự cởi mở tiếp nhận những ý kiến tâm huyết từ các chuyên gia của những người đứng đầu Đảng và Chính phủ qua cuộc trao đổi ngày 4/9/2025 và qua văn bản thông báo ngày 13/9/2025 khiến người làm năng lượng nguyên tử cảm kích. “Chúng tôi cảm thấy mừng vì lãnh đạo Đảng và Chính phủ thực sự quan tâm và hiểu công nghệ hạt nhân. Có thể thấy tầm nhìn dài hạn của những người đứng đầu đất nước và sự quyết tâm ‘tuyệt đối không đánh đổi an toàn lấy tiến độ hay quy mô’. Đó là những quan điểm vô cùng quý mà ngành hạt nhân cần để có thể yên tâm thực thi nhiệm vụ của mình”, một chuyên gia hơn 25 năm nghiên cứu về hạt nhân chia sẻ.
Quan điểm của những người đứng đầu đất nước đã đáp ứng mong mỏi của ngành năng lượng nguyên tử “tuyệt đối không đánh đổi an toàn lấy tiến độ hay quy mô”. Bởi trong thế giới hạt nhân đã có nhiều bài học kinh nghiệm về an toàn hạt nhân và tiến độ xây dựng. “Chấp nhận thể thức chìa khóa trao tay giúp xây lò nhanh, và bên A sẽ không chịu thiệt hại nếu bên B làm trễ tiến độ. Nhưng phó thác hết cho bên B trong thi công cũng khó tránh khỏi nhiều rủi ro, ẩn giấu những sai sót có thể ảnh hưởng đến an toàn của nhà máy, nhất là hàng chục năm về sau. Xây dựng nhà máy cần tuân thủ đầy đủ quy trình, đảm bảo chất lượng là yếu tố quan trọng để đảm bảo an toàn hạt nhân”, giáo sư Phạm Duy Hiển trao đổi như vậy, nhân trường hợp của Bangladesh, quốc gia nhập khẩu công nghệ của Rosatom và hiện đang xây dựng nhà máy điện hạt nhân Rooppur, “một quốc gia có trình độ phát triển kinh tế xã hội và khoa học hạt nhân gần giống Việt Nam, nên có thể xem như cơ sở tham chiếu tốt cho ta”.
Giáo sư Phạm Duy Hiển cũng đã phân tích tiến trình của nhà máy Rooppur, dự tính hòa lưới điện vào cuối năm 2023, nhưng đã bị trễ tiến độ nhiều lần nên vẫn chưa thể hoàn thành sau tám năm thi công. Lý do cho sự chậm trễ này là “công trình quá lớn và phức tạp so với trình độ phát triển của Bangladesh. Trên công trường thường xuyên có 33.000 lao động nội địa, 4.000 công nhân và kỹ sư đến từ Nga, cộng với nhiều tư vấn người Ấn Độ. Bangladesh cũng chịu trách nhiệm nhiều khâu quan trọng, nhưng do cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn kém phát triển nên nhiều chuyện khó lường đã phát sinh, gây trễ tiến độ”.
Năng lượng nguyên tử Việt Nam đang đứng trước cơ hội mới và con đường mới, không chỉ để nâng cao năng lực của mình mà còn để đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của xã hội, trong tâm thế của một ngành mà tổng công trình sư hạt nhân Nga Igor Kurchatov đã từng dự báo từ hơn bảy thập niên trước “Một trong những vấn đề quan trọng nhất của khoa học kỹ thuật hiện đại là sử dụng năng lượng của các phản ứng nhiệt hạch”. Và nhờ vào những việc làm có ý nghĩa lớn lao nên dù “Cuộc đời con người không phải là vĩnh cửu nhưng khoa học và hiểu biết sẽ vượt qua ngưỡng cửa của nhiều thế kỷ”.
Bài đăng KH&PT số 1362 (số 38/2025)